“Không có trật tự nào”, Lavisse viết rất chính xác, “được lập nên trong một ngày. Thường con người vứt bỏ nó xuống với một cái giá của những cuộc đảo lộn khủng khiếp, nhưng rồi có vẻ như là định mệnh họ lại dựng nó lên trở lại. Để có thể chiến thắng sự nhất trí của những người chống đối, mà ông ta đã nhận thấy trước đó, ông ta chỉ cần xuất hiện, nói ngắn gọn và đối phương như thể bị ông ta bỏ bùa mê, cuối cùng lại trở nên những người bạn của ông.
Cũng có lý khi mà các dân tộc luôn hấp tấp trong việc bảo vệ các niềm tin của họ. Trên đường tiếp cận, tất cả thủy thủ và sĩ quan trên xuồng ai cũng đều nhìn thấy “rất nhiều người đang chuyển động hỗn loạn, nhiều bàn tay vẫy vẫy, và nghe thấy vố số những âm thanh yếu ớt khó hiểu”. Thế cho nên đám đông chính là nô lệ của những kích động mà nó thụ nhận.
Theo quan điểm tâm lý học, khái niệm “Đám đông” mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Nó đã trở nên bất khả xâm phạm giống như những giáo lý một thời của nhà thờ. Nếu một người tù nào đó được tòa (tòa lưu động) tuyên án vô tội, anh ta sẽ được những lính canh và các đao phủ ôm hôn thắm thiết và nhiệt thành chúc mừng.
Ví dụ như tầng lớp quân sự hoặc tầng lớp các thầy tu. Khi bão táp qua đi họ lại trở về với những tính cách thường có của mình là những công dân lương thiện. Những lãnh đạo loại này chỉ có thể thực hiện tốt các nhiệm vụ của họ một khi nếu như bản thân họ cũng luôn nhận được sự lãnh đạo và khích lệ, luôn cảm thấy có một ai đó hoặc một ý tưởng ở trên mình và luôn phải tuân thủ chính xác mọi nguyên tắc hoạt động.
Đám đông tôn sùng quyền lực, đồng thời những cái tốt lại thường bị họ cho là dấu hiệu của sự yếu đuối, cho nên có tác động rất ít vào họ. Dạng hoàn thiện nhất của sự phiến diện của quốc hội đã được những người Jacobin hiện thực hóa trong cuộc cách mạng Pháp vĩ đại. Các đặc tính chung này kết hợp thêm với những tính chất đặc biệt thay đổi tùy thuộc vào các phần tử cấu thành đám đông, và qua đó làm thay đổi cấu trúc tư duy của nó.
là những trường hợp không hề có những quan điểm xác định sẵn và sự kích hoạt lúc này có thể gây ra tác động, cho dù không mạnh mẽ như đối với các đám đông thông thường. Ngược lại những cái không có thể nhất thường lại hay lộ ra rõ nhất. Nhưng cái niềm tin có thể dời núi, chỉ có thể thực sự dời được núi, nếu như núi không quá cao.
Nhưng dù một quan điểm nền tảng có bị lung lay mạnh, những thể chế xây dựng trên cơ sở của nó vẫn bảo toàn quyền lực và quyền lực đó chỉ biến mất đi một cách từ từ. Trên đống hoang tàn của rất nhiều tư tưởng một thời được coi là chính thống và giờ đây đã đi vào dĩ vãng, biết bao nhiêu loại quyền lực lần lượt bị cách mạng đè bẹp, chỉ một mình quyền lực mới này vươn dậy và dường như chẳng bao lâu nữa nó sẽ muốn nuốt chửng những cái khác. Những hành động có ý thức của chúng ta bắt nguồn từ một nền tảng vô thức, nó là cái được tạo nên từ những gì được truyền lại từ thế này sang thế hệ khác.
Ta thấy, như đã trình bày trên đây, rằng có thể có rất nhiều yếu tố tham dự vào sự hình thành nên uy lực. Vì lẽ đó tâm lý học đám đông còn có thể có ích cho nhiều lĩnh vực khác nữa. Nếu tự nhiên lãnh đạo vụt biến mất và không có ai để thay thế ngay lập tức, đám đông sẽ trở lại là một tập hợp rời rạc và không có sức kháng cự.
Sự khinh bỉ hoặc ngược đãi chẳng mảy may tác động đến họ hoặc chỉ càng kích thích họ nhiều hơn. Người ta cũng có kể về các bệnh thần kinh, như chứng bệnh sợ khoảng rộng chẳng hạn, rằng nó có thể truyền từ người sang thú vật. Không thể nào hiểu nổi, chỉ có 30 quân đoàn lại có thể bắt hàng trăm triệu con người thuần phục.
Số ít những người có uy lực kiểu như vậy đã có một tác động thực sự là thu hút và màu nhiệm vào môi trường xung quanh họ, và cả vào sự bình đẳng xã hội nữa, và người ta tuân phục họ như những con thú hoang dã thuần phục kẻ chế ngự chúng, những kẻ mà chúng dễ dàng nuốt chửng. Người ta cũng sẽ nhận thấy trong đám đông những sự tưởng tượng trái ngược nhau tiếp nối xuất hiện. Chúng không nảy mầm một cách tình cờ hoặc tùy ý.